CẦM MÁU
Máu là một
trong những thành phần quan trọng nhất của cơ thể, khối lượng của máu chiếm ( 7
– 9 ) % trọng lượng cơ thể. Máu lưu thông trong cơ thể cung cấp cho các tổ chức
tế bào oxy và chất dinh dưỡng, do đó để đảm bảo máu có thể thực hiện được các
chức năng này thì phải duy trì huyết áp, áp lực để duy trì sự lưu thông tuần
hoàn của máu.
Trong các tai nạn,
sự cố, do tác động của các yếu tố bên ngoài như cấu kiện đè, va chạm giao
thông, các vật nhọn đâm xuyên, rơi từ trên cao, tai nạn lao động… làm tổn
thương tới các mạch máu, đặc biệt là các động mạch làm cho thể tích máu trong
cơ thể giảm xuống nhanh chóng nếu nạn nhân chảy máu không được xử trí đúng cách
có thể dẫn tới biến chứng do chảy máu hoạc tử vong.
Nguyên tắc cầm máu khẩn cấp.
Khẩn trương,
nhanh chóng làm ngừng chảy máu, đặc biệt với các tổn thương động mạch: khi gặp
nạn nhân có vết thương chảy máu cần nhanh chóng cầm máu cho nạn nhân, nếu để vết
thương chảy máu trong thời gian dài sẽ dẫn tới hiện tượng choáng do mất máu, thậm
chí là tử vong do không đủ lượng máu duy trì hô hấp, tuần hoàn; ngoài ra đối với
các vết thương chảy máu ngoài nếu không xử lý cầm máu nhanh chóng có thể làm vết
thương nhiễm bẩn, nhiễm khuẩn do các yếu tố môi trường tác động;
Xử trí theo yêu
cầu của vết thương: Tùy vào vị trí vết thương, loại vết thương mà có cách xử lý
phù hợp, đối với các vết thương nhỏ có thể tự cầm máu thì chỉ cần làm sạch rồi băng
bó, tuy nhiên những vết thương ảnh hưởng tới tĩnh mạch, động mạch hay tổn
thương đến tim cần áp dụng các biện pháp cầm máu phù hợp để nhanh chóng hạn chế
sự mất máu cho nạn nhân.
Thận trọng khi
đặt garo, thực hiện đúng kỹ thuật đã quy định: garo là biện pháp cầm máu hiệu
quả nhất là đối với các vết thương động mạch, cắt cụt chi, tuy nhiên biện pháp
garo có nhược điểm là làm máu ngừng lưu thông tới các bộ phận dưới vị trí garo,
do đó nếu không thực hiện đúng kỹ thuật có thể làm bộ phận dưới phần được garo
bị hoại tử, gây khó khăn cho công tác cứu chữa tiếp theo của lực lượng y tế
chuyên nghiệp.
Phân biệt các loại chảy máu
Chảy máu động mạch
Trường hợp các
vết thương có tổn thương động mạch, máu từ động mạch phun thành tia theo nhịp đập
của tim, máu có màu đỏ tươi ( trừ trường hợp chảy máu động mạch phổi ). Đối với
các vết thương chảy máu động mạch cần ưu tiên trong quá trình sơ cấp cứu nạn
nhân.
Chảy máu tĩnh mạch
Đối với các vêt
thương làm tổn thương đến tĩnh mạch, máu chảy chậm hơn sơ với các vết thượng động
mạch, nếu những tĩnh mạch lớn chảy máu nhiều và trào ra đều trên bề mặt vết
thương, máu có màu đỏ sẫm ( trừ máu tĩnh mạch phổi ).
Chảy máu mao mạch
Chảy máu mao mạch
xảy ra đối với những vết thương nhỏ, nông do tổn thương cả mao động mạch và mao
tĩnh mạch. Đặc điểm vết thương chảy máu mao mạch là máu chảy số lượng ít, tốc độ
nhỏ. Trường hợp chảy máu mao mạch cơ thể tự cầm máu do các đầu mao mạch máu bị
đứt co lại để giảm lưu lượng máu tới các đầu mạch bị tổn thương, tạo điều kiện
hình thành cục máu dộng ngăn chặn chảy máu.
Lưu
ý: Các vết thương có hai sự nguy hiểm là: sự nhiễm độc và chảy máu nhiều.
Nhận xét
Đăng nhận xét